Dễ hiểu nhất về Orderflow IV. Các chỉ số phái sinh

Dễ hiểu nhất về Orderflow IV

OI/Open Interest/Khối lượng mở

“OI nói về Hợp đồng mở tức là Vị thế mở.

Mỗi hợp đồng đều có 2 bên. Một bên mua (Long) và một bên bán (Short).

Do đó, trong một giao dịch, người mua sẽ mua và người bán sẽ bán. Điều này tạo thành một hợp đồng chứ không phải hai.

Một hợp đồng này được biểu thị là 1 Khối lượng mở.

Tính toán OI.

Nó không khó và bạn có thể hiểu nó rất dễ dàng, với một chút kiên nhẫn.

3 nhà giao dịch ABC đang có mặt trên thị trường.

A và B nghĩ rằng giá sẽ tăng và tham gia mua 5 hợp đồng mỗi người.

C nghĩ giá sẽ giảm và bán khống 10 hợp đồng.

Trong trường hợp trên, A và B đã cùng nhau nhập 10 lệnh mua và C đã nhập 10 lệnh bán/short.

Tổng số hợp đồng mở trên thị trường là 10 và do đó, Khối lượng mở là 10.

Vào ngày thứ 2

A quyết định thêm 2 long.

B quyết định đóng 2 long.

C không làm gì cả.

Tổng số hợp đồng mở vẫn giữ nguyên.

Kết luận – OI không thay đổi khi hợp đồng được chuyển.

Nó chỉ thay đổi khi các hợp đồng mới hơn được tạo giữa những người tham gia hoặc là người chơi mới.

Ngày 3

D, một nhà giao dịch mới tham gia thị trường với 10 Short.

A tăng Long của mình lên 10.

Tổng số hợp đồng mở =20

Kết luận- Khối lượng mở mới được tạo ra khi các hợp đồng mới được tạo ra, thông qua các nhà giao dịch mới hoặc thông qua những người tham gia thị trường mới.

Những điểm chính rút ra từ phép tính.

1. OI có nghĩa là hợp đồng/vị thế mở.

2. Phải có một vị thế mua cho mỗi vị thế bán, do đó giao dịch phái sinh thường được gọi là trò chơi có tổng bằng không.

3. OI sẽ chỉ tăng khi các hợp đồng mới được tạo ra trên thị trường.

Cần nhớ OI không có tác dụng riêng. Nó chỉ là dữ liệu.

Tuy nhiên, khi được nghiên cứu cùng với giá, nó trở thành một trong những công cụ quan trọng nhất cho giao dịch đòn bẩy.”

Phần trong “” lấy từ tài liệu của EmperorBTC.

Okie, ráng đọc và hiểu nhen ( hiểu một lần rồi lần tới não sẽ không phải “nghĩ” tới lui về OI nữa.

Đây là cách OI sẽ trông như thế nào trong điều kiện thị trường thực tế.

Khi giá tăng/giảm với OI ngày càng tăng, điều đó có nghĩa là có cung/cầu mới gia nhập thị trường.

Nếu thị trường tăng/giảm với OI giảm, điều đó có nghĩa là các nhà giao dịch đang đóng vị thế của họ.

Bài kế tiếp chúng ta sẽ nói về funding rates/phí funding.

kông có đi sâu vào orderflow vì như vậy bài viết sẽ rất dài, nhìn chung OI là điều bắt buộc bạn phải nắm.

Sau đó bạn có thể có cái nhìn rõ ràng hơn với P.A

Ví dụ: OI tăng mạnh khi giá hầu như không tăng lên cho chúng ta biết rằng chúng ta đã có nhiều lệnh mua định hướng tham gia. Nếu đúng như vậy, chúng ta nên giao dịch ở mức cao hơn nhiều.

Điều này là do ai đó ở phía đối diện đang lấp đầy việc bán thụ động khi giá tăng. Điều này có thể xảy ra trên cùng một sàn giao dịch hoặc thị trường giao ngay….

Nhìn chung, khi nhìn vào OI, Thanh Lý, Funding Rates, CVD bạn sẽ thấy được người ta đang làm gì trên thị trường trong thời gian thực ( ko mang ý nghĩa dự đoán nha nha) mà những chỉ số khác không có làm được.

Hi vọng, bài riêng sau funding rates Hạnh sẽ “giải quyết” vấn đề này và bạn sẽ hiểu rõ ràng hơn

Comments (No)

Leave a Reply